GIÁO HUẤN về NHẬP THỂ

 

Đặt vấn đề và giải quyết theo Huấn Quyền Giáo Hội

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo (GLGHCG) và Sứ Điệp () của Đức Thánh Cha đă dạy ǵ về những vấn đề liên quan đến Mầu Nhiệm và Biến Cố Nhập Thể sau đây:

 

1.      Nhập Thể là ǵ?

2.      Nhập Thể đă xẩy ra như thế nào?

3.      Tại sao Thiên Chúa lại hóa thành nhục thể?

4.      Mầu Nhiệm Nhập Thể có nghĩa ǵ đối với nhân loại?

5.      Mầu Nhiệm Nhập Thể đă ảnh hưởng thế nào tới lịch sử nhân loại?

6.      Phải chăng “xác thịt” đă trở nên cao quí nhờ “Lời hóa thành nhục thể”?

7.      Văn hóa tử vong là ǵ? Ai là tác nhân của văn hóa này? Liệt kê tất cả các bộ mặt của văn hóa tử vong?

8.      Đầu thai luân hồi có ngược lại với Nhập Thể hay không? Không th́ tại sao? Có ở chỗ nào?

9.      Phải sống làm sao để xứng đáng với phẩm giá làm người của ḿnh theo ư nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể? Bằng cách nào?

10.  Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam chúng ta phải làm ǵ để có thể xây dựng xă hội chúng ta đang sống cũng như xây dựng một quê hương Việt Nam tốt đẹp theo chiều hướng Nhập Thể của Thiên Chúa làm người?

 

 

TEACHING on INCARNATION

           

Questions resolved according to Church’s Magistrarium

by Dominic Mary Tinh Tan Cao 

 

 

What is the teaching of Catechism of the Catholic Church (CCC) and Holy Father’s Message (HFM) regarding the following issues:

 

1.     What is Incarnation?

2.     How can Incarnation happen?

3.     Why Incarnation?

4.     How does Incarnation mean to humanity?

5.     How has Incarnation affected human history?

6.     Is “flesh” becoming good due to Incarnation?

7.     What is the culture of death? Who is its agent? Name all of the specific things of the culture of death?

8.     Is reincarnation against Incarnation? If no, why? If yes, how?

9.     How can we live our human dignity according to the meaning of Incarnation Mystery? By what means?

10. How can we Vietnamese Catholic Youth build up our present society and our Vietnam country in the light of Incarnation?

 

1.   Nhập Thể là ǵ?

 

      Nhập Thể là biến cố Thiên Chúa Thần Linh vô h́nh đă mặc lấy xác thể hữu h́nh nơi Con Người Đức Giêsu Kitô.

 

·         Con người Giêsu quê Nazarét là Con Thiên Chúa, Lời nhập thể, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa đă đến trong thế gian... Đức Giêsu quê Nazarét là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, là Emmanuel”. (SĐ, 2.1)

 

·         Căn cứ vào lời diễn tả của Thánh Gioan ‘Lời đă hóa thành nhục thể’ (Jn 1:14), Giáo Hội gọi ‘Nhập Thể’ là sự kiện Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại… ‘Đức Giêsu Kitô cho dù thân phận là Thiên Chúa song đă tự hủy ra hư không, mặc lấy thân phận tôi tớ, sinh ra giống như con người’ (Phil 2:5-8)”. (GLGHCG, 461)

 

2.   Nhập Thể đă xẩy ra như thế nào?

 

      Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Linh và được hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria, do đó, Người là Thiên Chúa thật và cũng là Người thật.

 

·         “Thiên Chúa là Đấng vô h́nh sống động và hiện diện nơi con người Đức Giêsu là Con Đức Maria, Theotokos, Mẹ Thiên Chúa”. (SĐ, 2.1)

 

·         “Thật vậy, bởi Chúa Thánh Thần, Đấng Mẹ đă thụ thai như là một con người, Đấng đă thực sự trở nên Người Con của Mẹ theo xác thịt, không ai khác hơn là chính Người Con hằng hữu của Chúa Cha, ngôi hai trong Ba Ngôi Chí Thánh”. (GLGHCG, 495)

1.   What is Incarnation?

 

       Incarnation is the event in which invisible God who is Spirit assumed a body and became visible in the person of Jesus Christ.

 

·         The man Jesus of Nazareth is the Son of God, the Word made flesh, the second person of the Trinity who came into the world… Jesus of Nazareth is God with us, Emmanuel.” (HFM, 2.1)

 

·        Taking up Saint John’s expression, ‘The Word became flesh’ (Jn 1:14), the Church calls ‘Incarnation’ the fact that the Son of God assumed a human nature… ‘Christ Jesus, who, though he was in the form of God emptied himself, taking the form of a servant, being born in the likeness of men (Phil 2:5-8)” (CCC 461)

 

2.       How can Incarnation happen?

 

      Jesus Christ, God made Man, was conceived by the power of the Holy Spirit and was born by the Virgin Mary; He is true God and true Man.

 

·        God, the invisible one is alive and present in the person of Jesus, Son of Mary, the Theotokos, Mother of God.” (HFM, 2.1)

 

·        In fact, the One whom she conceived as man by the Holy Spirit, who truly became her Son according to the flesh, was none other than the Father’s eternal Son, the second person of the Holy Trinity.” (CCC, 495)

·         “Toàn thể biến cố Nhập Thể độc nhất vô nhị của Con Thiên Chúa không có nghĩa Đức Giêsu Kitô một phần là Thiên Chúa và một phần là loài người, cũng không phải Người là sản phẩm của việc trộn lẫn giữa những ǵ thần linh và loài người. Người đă thực sự trở nên con người mà vẫn thực sự là Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật” (GLGHCG, 464, xem cả số 469).

 

3.   Tại sao Thiên Chúa lại hóa thành nhục thể?

 

      Một trong những lư do chính yếu khiến cho Thiên Chúa nhập thể làm người đó là v́ Ngài muốn thần linh hóa bản tính loài người, nhờ đó làm cho loài người được trở nên con cái Thiên Chúa, qua việc để họ thông phần vào Thiên Tính của Ngài và sống Sự Sống Thần Linh với Ngài.

 

·         “Nơi Đức Giêsu sinh ở Bêlem, Thiên Chúa đă mặc lấy thân phận con người, làm cho con người có thể tới gần Ngài, để thiết lập giao ước với loài người”. (SĐ, 2.1)

 

·        “Lời đă hóa thành nhục thể để làm cho chúng ta được trở nên ‘những người được thông phần vào bản tính thần linh’ (2Pt 1:4): ‘V́ đó là lư do tại sao Lời đă làm người, và Con của Thiên Chúa đă trở thành Con của con người: để con người được trở nên con của Thiên Chúa, bằng việc hiệp thông với Lời nhờ đó được làm con cái thần linh’ (Thánh Irênêô, Adv. Haeres. 3, 19, 1: PG 7/1, 939). V́ Con Thiên Chúa đă làm người để chúng ta trở nên Thiên Chúa’ (Thánh Anathasiô, De Inc., 54, 3: PG 25, 192B). ‘Người Con duy nhất của Thiên Chúa, v́ muốn làm cho chúng ta trở nên những kẻ tham phần vào thần tính của ḿnh, đă mặc lấy bản tính của chúng ta, để Đấng làm người có thể làm cho con người nên những vị thần linh’ (Thánh Tôma Aquina, Opusc. 57:1-4)” (số 460)

·         The unique and altogether singular event of the Incarnation of the Son of God does not mean that Jesus Christ is part God and part man, nor does it imply that he is the result of a confused mixture of the divine and the human. He became truly man while remaining truly God. Jesus Christ is true God and true man.” (CCC 464; also cf. 469)

 

3.   Why Incarnation?

 

      One of the main reasons why God became flesh and was made man is that He wants to divinely elevated our human nature, so that He can give man power to become His son and daughter, allowing them participating in His Divinity and living with His Divine Life.

 

·        In Jesus, born in Bethlehem, God embraces the human condition, making himself accessible, establishing a covenant with mankind.” (HFM, 2.1)

 

·        The Word became flesh to make us ‘partakers of the divine nature’ (2 Pet. 1:4): ‘For this is why the Word became man, and the Son of God became the Son of man: so that man, by entering into communion with the Word and thus receiving divine sonship, might become a son of God.’ (St. Irenaeus, Adv. haeres. 3, 19, 1: PG 7/1, 939). ‘For the Son of God became man so that we might become God.’ (St. Athanasius, De inc., 54, 3: PG 25, 192B). ‘The only-begotten Son of God, wanting to make us sharers in his divinity, assumed our nature, so that he, make man, might made men gods.’ (St. Thomas Aquinas, Opusc. 57:1-4).” (CCC, 460)

4.   Mầu Nhiệm Nhập Thể có nghĩa ǵ đối với nhân    loại?

 

Thiên Chúa nhập thể trở nên một Con Người như chúng ta đă làm cho nhân phẩm của con người chúng ta càng trở nên cao trọng hơn nữa, làm cho chúng ta trở thành anh chị em của nhau có cùng một Cha trên trời, làm cho tất cả những ǵ thuộc về thân phận hèn hạ của con người được thánh hóa, và nhất là làm cho nhân loại chúng ta có thể sống trong Ngài.

 

·         Đón nhận Chúa Giêsu Kitô nghĩa là chấp nhận từ nơi Chúa Cha lệnh truyền sống kính mến Ngài và yêu thương anh chị em của chúng ta, ở chỗ tỏ ra đoàn kết với mọi người không phân biệt ai; nghĩa là tin rằng, trong lịch sử loài người, cho dù nó có mang dấu vết sự dữ và khổ đau, th́ lời nói cuối cùng vẫn là của sự sống và yêu thương, v́ Thiên Chúa đă đến ở giữa chúng ta để chúng ta có thể sống trong Ngài”. (SĐ, 2.2)

 

·         Toàn thể đời sống của Chúa Kitô là mầu nhiệm tái tạo. Tất cả những ǵ Chúa Giêsu thực hiện, nói năng và chịu đựng là nhắm đến mục đích để phục hồi con người sa đọa trở lại với ơn gọi nguyên thủy của họ: Nhập thể và làm người, Người đă tái tạo nơi bản thân ḿnh cả một lịch sử dài của loài người, và mang chúng ta đến với ơn cứu độ bằng một ngơ tắt, để những ǵ chúng ta đă bị mất đi nơi Adong, tức là đă bị mất đi cái h́nh ảnh và tương tự như Thiên Chúa, chúng ta có thể lấy lại nơi Chúa Giêsu Kitô (Thánh Irênêô, Adv. haeres. 3, 18, 1: PG 7/1, 932). V́ lư do này, Chúa Kitô đă phải trải qua tất cả các đoạn đời của cuộc sống, nhờ đó Người làm cho tất cả mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa (Thánh Irênêô, Adv. haeres. 3, 18, 7: PG 7/1, 937; x. 2, 22, 4)”. (GLGHCG, 518)

4.   How does Incarnation mean to humanity?

 

      God incarnate who became man like us gives more value to our human dignity, makes us brothers and sisters to each other under the one heavenly Father, transforms everything from our human lowly conditions, and specially allows us human creature living in Him.

 

·        To receive Jesus Christ means to accept from the Father the command to live, loving Him and our brothers and sisters, showing solidarity to everyone, without distinction; it means believing that in the history of humanity even though it is marked by evil and suffering, the final word belongs to life and to love, because God came to dwell among us, so we may dwell in Him.” (HFM, 2.2)

 

·        Christ’s whole life is a mystery of recapitulation. All Jesus did, said, and suffered had for its aim restoring fallen man to his original vocation: When Christ became incarnate and was made man, he recapitulated in himself the long history of mankind and procured for us a ‘short cut’ to salvation, so that what we had lost in Adam, that is, being in the image and likeness of God, we might recover in Christ Jesus (St Irenaeus, Adv. haeres. 3, 18, 1: PG 7/1, 932). For this reason Christ experienced all the stages of life, thereby giving communion with God to all men (St Irenaeus, Adv. haeres. 3, 18, 7: PG 7/1, 937; cf. 2, 22, 4).” (CCC, 518)

 

 

5.   Mầu Nhiệm Nhập Thể đă ảnh hưởng thế nào tới        lịch sử nhân loại?

      Với bản tính nhân loại của ḿnh, Chúa Giêsu Kitô, bằng việc hiến mạng sống phần xác, đă cứu chuộc loài người khỏi tội lỗi và sự chết là những ǵ đă đột nhập vào thế gian từ khi nguyên tổ sa phạm, và bằng việc Phục Sinh của thân xác tử nạn, Người c̣n ban cho họ Sự Sống Thần Linh của Người nữa.

·         Bằng việc nhập thể của ḿnh, Chúa Kitô đă trở nên bần cùng để làm cho chúng ta nên phong phú nhờ cái nghèo của Người, và Người đă ban cho chúng ta ơn cứu chuộc là hoa trái trước hết bởi máu Người đổ ra trên thập giá” (SĐ, 2.3). “Các con hăy tôn thờ Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, Đấng thí mạng sống ḿnh v́ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết: Người là Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch Sự Sống” (SĐ, 3.1).

·         “Mầu nhiệm Vượt Qua có hai phương diện, ở chỗ, bằng cái chết của ḿnh, Chúa Kitô đă giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi; và bằng việc Phục Sinh của ḿnh, Người đă mở ra cho chúng ta một con đường sống mới. Sự sống mới này trước hết là việc công chính hóa, một việc công chính hóa phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa Chúa, ‘để như Chúa Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha sống lại thế nào, chúng ta cũng bước đi trong sự sống mới như vậy’. Việc công chính hóa ở tại cả việc chiến thắng sự chết do tội lỗi gây ra lẫn việc được thông phần vào ân sủng. Việc công chính hóa phát sinh ơn dưỡng tử làm cho con người trở nên anh em của Chúa Kitô, như chính Đức Giêsu đă gọi các môn đệ của ḿnh sau khi phục sinh: ‘Hăy về mà nói với anh em Thày’. Chúng ta là anh em không phải theo bản tính mà là bởi ân sủng, v́ ơn nghĩa tử này làm cho chúng ta  thực sự thông phần vào sự sống của Người Con duy nhất, Người Con hoàn toàn được tỏ hiện nơi việc Phục Sinh của Người”. (GLGHCG, 654)

5.   How has Incarnation affected human history?

 

In His humanity, Jesus Christ, through sacrifying body, saves humankind from sin and death which came into the world since original sin, and through resurrection of His  nailing body, gives divine life to them.

 

·        By his incarnation Christ became poor to enrich us with his poverty, and he gave us redemption, which is the fruit above all of the blood he shed on the Cross (cf. Catechism of the Catholic Church 517).” (CCC, 2.3). “Adore Christ, our Redeemer, who ransoms us and frees us from sin and death: He is the living God, the source of Life.” (CCC, 3.1)

 

·        The Pascal mystery has two aspects: by his death, Christ liberates us from sin; by his Resurrection, he opens for us the way to a new life. This new life is above all justification that reinstates us in God’s grace, ‘so that as Christ was raised from the dead by the glory of the Father, we too might walk in newness of life’ (Rm 6:4; cf. 4:25). Justification consists in both victory over the death caused by sin and a new participation in grace (Cf. Eph 2:4-5; 1Pt 1:3). It brings about filial adoption so that men become Christ’s brethren, as Jesus himself called his disciples after his Resurrection: ‘Go and tell my brethren’ (Mt 28:10; Jn 20:17). We are brethren not by nature, but by the gift of grace, because that adoptive filiation gains us a real share in the life of the only Son, which was fully revealed in his Resurrection.” (CCC, 654)

6.   Phải chăng “xác thịt” đă trở nên cao quí nhờ Lời       hóa thành nhục thể”?

 

      Việc Thiên Chúa vô cùng cao cả và toàn thiện mặc lấy xác thể tầm thường hèn hạ để làm người nơi Đức Giêsu Kitô, nhất là việc Ngài dùng thân xác của con người để chết đi cho nhân loại, đă làm cho thân xác con người chẳng những trở nên tuyệt cao trọng mà c̣n trở nên phương tiện cứu rỗi trần gian nữa. Bởi thế, con người phải tỏ ra tôn trọng thân xác của ḿnh và dùng nó vào việc phục vụ sự sống trong đời sống hôn nhân, hơn là chỉ t́m hưởng lạc thú dâm dục như thủ dâm, khỏa dâm, khiêu dâm, đồng tính luyến ái, tiền dâm hậu thú v.v.

 

·         Thật vậy, các con làm sao có thể tin vào vị Thiên Chúa làm người mà lại không đứng vững trước tất cả những ǵ hủy hoại bản thân con người và gia đ́nh con người?” (SĐ, 3.5)

 

·         Chúa Giêsu đă đến để mang tạo vật về lại với tính chất tinh tuyền nguyên khai của nó. Ở Bài Giảng Trên Núi, Người giải thích dự án của Thiên Chúa một cách chặt chẽ: ‘Các con đă nghe nói rằng: các ngươi không được ngoại t́nh. C̣n Thày th́ nói với các con rằng bất cứ ai theo dục tính nh́n người nữ đă phạm tội ngoại t́nh với họ trong ḷng ḿnh rồi’ (Mt 5:27-28). Những ǵ Thiên Chúa đă nối kết không ai được phân ly (x Mt 19:6)”. (GLGHCG, 2336)

 

·         Dục tính được qui hướng về t́nh yêu phối ngẫu giữa người nam và người nữ. Việc ân ái về thể lư của vợ chồng trong đời sống hôn nhân là một dấu chỉ và là bảo chứng cho mối hiệp thông về tâm linh. Những liên hệ về hôn nhân giữa những người đă lănh nhận bí tích rửa tội đă được thánh hóa bởi bí tích hôn phối”. (GLGHCG, 2360)

6.   Is “flesh” becoming good due to       Incarnation?

 

      God, Who is infinite and perfect, assumed a lowly body to become a man in Jesus Christ and used this body to die for man’s cause. Due to this human body is not only raised up to the most sublime dignity but also become the means for human salvation. That’s why human body ought to be respected properly and to be used to serve for marriage’s purposes, rather than to be explored for inordinate sexual pleasures, such as masturbation, sexy, pornography, homosexuality, pre-marriage sex etc.

 

·        In fact, how could you say you believe in God made man without taking a firm position against all that destroys the human person and the family?” (HFM, 3.5)

 

·        Jesus came to restore creation to the purity of its origins. In the Sermon on the Mount, he interprets God’s plan strictly: ‘You have heard that it was said, ‘You shall not commit adultery.’ But I say to you that every one who looks at a woman lustfully has already committed adultery with her in his heart.’ (Mt 5:27-28). What God has joined together, let not man put asunder (Cf. Mt 19:6).” (CCC, 2336)

 

·        Sexuality is ordered to the conjugal love of man and woman, In marriage the physical intimacy of the spouses becomes a sign and pledge of spiritual communion. Marriage bonds between baptized persons are sanctified by the sacrament.” (CCC, 2360)

 

·         Dâm dục là ước muốn lăng loàn muốn hưởng lạc thú xác thịt hay việc thụ hưởng lạc thú xác thịt cách bất chính. Theo luân lư, hưởng lạc thú xác thịt bất chính đó là việc chỉ hoàn toàn t́m thỏa măn xác thịt, chứ không nhắm đến mục đích truyền sinh và phối hợp”. (GLGHCG, 2351)

 

·        Thủ dâm được hiểu là việc tự ḿnh làm kích thích các bộ phận sinh dục để t́m thỏa măn xác thịt… ‘Cả Huấn Quyền của Giáo Hội lẫn cảm quan luân lư của tín hữu đều không ngần ngại mạnh mẽ chủ trương rằng thủ dâm tự bản chất là hành động hết sức lăng loàn. V́ bất cứ lư do ǵ, tự ḿnh sử dụng bộ phận sinh dục ngoài phạm vi hôn nhân đều thực sự là làm ngược lại với mục đích của bộ phận ấy’. Bởi làm như thế th́ việc hưởng lạc thú xác thịt chỉ xẩy ra ở ngoài ‘mối liên hệ xác thịt theo phạm vi luân lư đ̣i hỏi, một liên hệ xác thịt cần phải đạt được tất cả ư nghĩa của tác động tự hiến thân cho nhau cũng như của việc truyền sinh liên quan đến t́nh yêu chân thực’ (Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, Persona humana 9)”. (GLGHCG, 2352)

 

·        Khiêu dâm xẩy ra ở chỗ cố ư mang những tác động xác thịt thực sự hay tương tự của việc nam nữ ái ân đem bầy tỏ ra cho những người khác thấy. Khiêu dâm phạm đến đức trong sạch v́ nó làm bại hoại tác động phối ngẫu, bại hoại việc vợ chồng thân mật trao thân cho nhau. Nó thực sự làm tổn hại đến phẩm giá của các phần tử tham phần (như diễn viên, người phổ biến, công chúng), v́ mỗi người đều trở thành đối tượng của việc thỏa măn hèn hạ cũng như của thứ lợi lộc bất chính cho nhau. Nó d́m tất cả những ai tham gia vào một thứ ảo tưởng thuộc thế giới giả tạo. Nó là một vi phạm trầm trọng”. (GLGHCG, 2354)

 

 

·         Lust is disordered desire for or inordinate enjoyment of sexual pleasure. Sexual pleasure is morally disordered when sought for itself, isolated from its procreative and unitive purposes.” (CCC, 2351)

 

·         By masturbation is to be understood the deliberate stimulation of the genital organs in order to derive sexual pleasure. ‘Both the Magisterium of the Church, in the course of a constant tradition, and the moral sense of the faithful have been in no doubt and have firmly maintained that masturbation is an intrinsically and gravely disordered action. The deliberate use of the sexual faculty, for whatever reason, outside of marriage is essentially contrary to its purpose’. For here sexual pleasure is sought outside of ‘the sexual relationship which is demanded by the moral order and in which the total meaning of mutual self-giving and human procreation in the context or true love is achieved.’ (Congregation for the Doctrine of the Faith, Persona humana 11).” (CCC, 2352)

 

·         Pornography consists in removing real or simulated sexual acts from the intimacy of the partners, in order to display them deliberately to third parties. It offends against chastity because it perverts the conjugal act, the intimate giving of spouses to each other. It does grave injury to the dignity of its participants (actors, vendors, the public), since each one becomes an ooàect of base pleasure and illicit profit for others. It immerses all who are involved in the illusion of a fantasy would. It is a grave offense.” (CCC, 2354)

 

·        Đồng tính luyến ái nghĩa là những liên hệ giữa nam nhân với nhau hay nữ nhân với nhau, thành phần cảm thấy một sức hấp dẫn phái tính hoàn toàn hay độc chiếm đối với  những người cùng phái tính với ḿnh… Căn cứ vào Thánh Kinh cho thấy những việc đồng tính luyến ái là những việc suy bại nặng nề, truyền thống bao giờ cũng khẳng định rằng ‘các việc đồng tính luyến ái tự bản chất là bất chính’. Chúng phản lại với luật tự nhiên. Chúng ngăn trở tác động xác thịt trong việc trao ban tặng ân sự sống. Chúng không phát xuất từ mối hỗ tương t́nh cảm và t́nh dục chân chính. Không thể nào chấp nhận chúng trong bất cứ một trường hợp nào”. (GLGHCG, 2357)

 

·         Những kỹ thuật gây phân rẽ vợ chồng, (hiến tinh trùng hay noăn sào hoặc cho mượn tử cung), bằng cách xen vào một người không phải là chính đôi phối ngẫu đều là những việc hết sức vô luân. Những kỹ thuật này (thụ tinh và đậu thai nhân tạo không phải của chồng) đều phạm đến quyền của đứa nhỏ phải được sinh ra bởi cha mẹ thật của ḿnh trong đời sống hôn nhân. Chúng phản lại với đôi phối ngẫu nơi ‘quyền trở thành cha mẹ chỉ ở nơi nhau mà thôi’ (Th Bộ Tín Lư Đức Tin, Donum vitae II, 1)”. (GLGHCG, 2376)

 

·         Những kỹ thuật chỉ dính dáng đến đôi phối ngẫu (thụ tinh và đậu thai nhân tạo của chồng) có thể ít tai hại hơn song theo luân lư vẫn không chấp nhận được. Chúng phân rẽ tác động vợ chồng ra khỏi tác động truyền sinh. Tác động sinh sản con cái không c̣n là tác động hai người trao thân cho nhau nữa, mà là tác động ‘kư thác sự sống cùng bản chất của bào thai vào quyền lực của các vị bác sĩ cũng như của các chuyên viên sinh vật học, và khiến cho kỹ thuật nắm  chủ quyền trên nguồn gốc và định mệnh của con người…”. (GLGHCG, 2377)

·         Homosexuality refers to relations between men or between women who experience an exclusive or predominant sexual attraction toward persons of the same sex… Basing itself on Sacred Scripture, which presents homosexual acts as acts of grave depravity (Cf. Gen 19:1-29; Rm 1:24-27; 1Cor 6:10; 1Tim 1:10), tradition has always declared that ‘homosexual acts are intrinsically disordered’ (Congregation for the Doctrine of Faith, Persona humana 8). They are contrary to the natural law. They close the sexual act to the gift of life. They do not proceed from a genuine affective and sexual complementarity. Under no circumstances can they be approved.” (CCC, 2357)

·         Techniques that entail the dissociation of husband and wife, by the intrusion of a person other than the couple (donation of sperm or ovum, surrogate uterus), are gravely immoral. These techniques (heterologous artificial insemination and fertilization) infringe the child’s right to be born of a father and mother known to him and bound to each other by marriage. They betray the spouses’ ‘right to become a father and a mother only through each other’ (Congregation for the Doctrine of Faith, Donum vitae II, 1).” (CCC, 2376)

·        Techniques involving only the married couple (homologous artificial insemination and fertilization) are perhaps less reprehensible, yet remain morally unacceptable. They dissociate the sexual act from the procreative act. The act which brings the child into existence is no longer an act by which two persons give themselves to one another, but one that ‘entrusts the life and identity  of the embryo into the power of doctors and biologists and establishes the domination of technology over the origin and destiny of the human person…” (CCC, 2377)

·         Việc tiết dục từng lúc, tức là những phương pháp điều ḥa sinh sản dựa trên việc tự giữ ḿnh và lợi dụng những thời kỳ không thụ thai, là việc hợp với qui tắc khách quan của luân lư (x Thông Điệp Sự Sống Con Người, 12). Những phương pháp này tôn trọng thân xác của đôi phối ngẫu, tăng thêm niềm ưu ái cho họ, và thuận lợi cho việc huấn luyện niềm tự do chân chính. Trái lại, tự bản chất là xấu đối với ‘mọi hành động, trước hay sau tác động vợ chồng, hoặc đang lúc phát triển hoa trái của tác động này, tỏ ra muốn ngăn trở việc truyền sinh, dù là mục đích hay phương tiện’ (Thông Điệp Sự Sống Con Người, 14)”. (GLGHCG, 2370)

 

·         Ly dị là một vi phạm nặng nề đến luật tự nhiên. Nó đ̣i phá hủy giao ước được đôi phối ngẫu tự t́nh đồng ư sống với nhau cho đến chết. Ly dị thực sự gây tổn thương đến giao ước cứu độ mà bí tích hôn phối là dấu chỉ. Lập gia đ́nh nữa, cho dù có được luật dân sự công nhận, càng làm cho cuộc đổ vỡ thêm trầm trọng hơn, ở chỗ người phối ngẫu tái giá bấy giờ ở vào t́nh trạng công khai và vĩnh viễn ngoại t́nh” (GLGHCG, 2384). “Ly dị là bất luân c̣n bởi v́ nó làm cho gia đ́nh và xă hội hỗn loạn. T́nh trạng hỗn loạn này gây tổn hại nặng nề cho người phối ngẫu bị bỏ rơi, cho con cái bị chấn động do việc cha mẹ chúng phân ly và thường bị cha mẹ giành giật, cũng như bởi v́ hậu quả lây nhiễm của nó làm cho nó thật sự trở thành một nạn dịch của xă hội” (GLGHCG, 2385).

 

·         Đối với cái gọi là tự do phối ngẫu, nam nữ không chấp nhận thể thức ràng buộc công khai về pháp lư trong việc ăn ở vợ chồng... Thứ tự do phối ngẫu này bao gồm trường hợp như vợ lẽ, không chịu kết hôn v́ ràng buộc, hay không thể dấn thân lâu bền. Tất cả những trường hợp này phạm đến phẩm giá gia đ́nh... nghịch với luật luân lư...” (CCC 2390).

·         Periodic continence, that is, the methods of birth regulation based on self-observation and the use of infertile periods, is in conformity with the ooàective criteria of morality (Human Vitae 16). These methods respect the bodies of the spouses, encourage tenderness between them, and favor the education of an authentic freedom. In contrast, ‘every action which, whether in anticipation of the conjugal act, or in its accomplishment, or in the development of its natural consequences, proposes, whether as an end or as a means, to render procreation impossible’ is intrinsically evil (Human Vitae 14).” (CCC, 2370)

·        Divorce is a grave offense against the natural law. It claims to break the contract, to which the spouses freely consented to live with each other till death. Divorce does injury to the covenant of salvation, of which sacramental marriage is the sign. Contracting a new union, even if it is recognized by civil law, adds to the gravity of the rupture: the remarried spouse is then in a situation of public and permanent adultery.” (CCC, 2384). “Divorce is immoral also because it introduces disorder into the family and into society. This disorder brings grave harm to the deserted spouse, to children traumatized by the separation of their parents and often torn between them, and because of its contagious effect which makes it truly a plague on society.” (CC, 2385)

·        In a so-called free union, a man and a woman refuse to give juridical and public form to a liaison involving sexual intimacy… The expression covers a number of different situations: concubinage, rejection of marriage as such, or inability to make long-term commitments. All these situations offend against the dignity of marriage… contrary to the moral law…” (CCC, 2390)

·         Ngày nay có một số người đ̣i ‘quyền thử hôn’ với chủ ư là sẽ lập gia đ́nh sau đó. Cho dù mục đích của những ai dính dáng đến việc tiền dâm có mạnh mẽ thế nào đi nữa, ‘sự thật vẫn là những liên hệ này khó ḷng bảo đảm được tính cách chân t́nh và trung thành với nhau trong tương quan nam nữ, nhất là chúng cũng không bảo vệ mối tương quan này khỏi tính cách bất nhất của ước muốn hay đột hứng‘ (Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, Persona humana 7). Việc hiệp nhất xác thịt chỉ hợp pháp theo luân lư khi nào thực sự có một cộng đồng sự sống được thiết lập giữa một người nam và một người nữ. T́nh yêu nhân loại không chấp nhận ‘các cuộc hôn nhân thử’. Nó đ̣i hỏi con người phải hoàn toàn và dứt khoát hiến thân cho nhau (x Tông Huấn về Vai Tṛ của Gia Đ́nh Kitô Hữu trong Thế Giới Tân Tiến, 80)”. (GLGHCG 2391)

 

·         Đức đoan trang bảo vệ mầu nhiệm con người và t́nh yêu của họ. Nó làm cho con người nhẫn nại và điều ḥa trong những liên hệ yêu đương; nó đ̣i nam nữ phải hoàn tất điều kiện trao ban và dấn thân dứt khoát cho nhau. Đoan trang là nết na. Nó khuyến khích con người trong việc chọn lựa quần áo. Nó giữ thinh lặng hay giữ ḿnh nơi có những nguy hiểm về óc ṭ ṃ không lành mạnh. Nó là sự kín đáo” (GLGHCG, 2522). “Đức đoan trang được thể hiện ở cảm xúc cũng như ở thân xác. Chẳng hạn như việc nó chống lại những khai thác về nhăn quan thích ngắm nh́n thân thể con người ở một số những quảng cáo, hay chống lại những khêu gợi của một số phương tiện truyền thông đi quá xa đến chỗ phơi bầy ra những điều thân mật kín đáo. Đức đoan trang khuyến khích lối sống giúp chống lại những kiểu khêu gợi của thời trang và những chi phối của các ư thức hệ cực thịnh” (GLGHCG, 2523).

·         Some today claim a ‘right to a trial marriage’ where there is an intention of getting married later. However firm the purpose of those who engage in premature sexual relations may be, ‘the fact is that such liaisons can scarcely ensure mutual sincerity and fidelity in a relationship between a man and a woman, nor, especially, can they protect it from inconstancy of desires or whim.’ (Congregation for the Doctrine of the Faith, Persona humana 7). Carnal union is morally legitimate only when a definitive community of life between a man and woman has been established. Human love does not tolerate ‘trial marriage.’ It demands a total and definitive gift of persons to one another (cf. Familiaris Consortio 80).” (CCC, 2391)

 

·        Modesty protects the mystery of persons and their love. It encourages patience and moderation in loving relationships; it requires that the conditions for the definitive giving and commitment of man and woman to one another be fulfilled. Modesty is decency. It inspires one’s choice of clothing. It keeps silence or reserve where there is evident risk of unhealthy curiosity. It is discreet.” (CCC, 2522). “There is a modesty of the feelings as well as of the body. It protests, for example, against the voyeuristic explorations of the human body in certain advertisements, or against the solicitations of certain media that go too far in the exhibition of intimate things. Modesty inspires a way of life which makes it possible to resist the allurements of fashion and the pressures of prevailing ideologies.” (CCC, 2523)

7.   Văn hóa tử vong là ǵ? Ai là tác nhân của nó?       Liệt kê tất cả các bộ mặt của văn hóa tử vong?

 

Văn hóa tử vong là một ư thức hệ tân thời chủ trương và cho phép con người được quyền hủy hoại bản thân (về phái tính và gia đ́nh ở vấn đề 6) nói chung và sự sống nói riêng. Tác nhân của thứ văn hóa tử vong này là tinh thần phản kitô, tinh thần không tin Chúa Kitô đến trong xác thịt (2Jn 7; x 1Jn 2:22), nên đă không chấp nhận bất lực và khổ đau, gây ra phá thai và trợ mê tử.

·         Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ ngay từ lúc đầu thai. Từ giây phút vừa được hiện hữu, hữu thể con người phải được công nhận là đă có những quyền lợi của một con người – trong đó có quyền sống bất khả xâm phạm của mọi con người vô tội (x Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, Donum vitae I, 1) (GLGHCG, 2270). “Từ thế kỷ đầu tiên Giáo Hội đă khẳng định mọi hành động t́m cách phá thai theo luân lư đều là xấu xa. Giáo huấn này đă không thay đổi và bất khả đổi thay. Việc trực tiếp phá thai, tức là, lấy phá thai làm mục đích hay phương tiện, là trọng phạm đến luật luân lư” (GLGHCG, 2271)

·         Những ai có sự sống bị giảm sút hay suy yếu đều đáng được đặc biệt tôn trọng. Những bệnh nhân hay người khuyết tật phải được giúp đỡ để sống một đời sống b́nh thường bao nhiêu có thể” (GLGHCG, 2276). “Việc trực tiếp trợ mê tử, cho dù bởi động lực hay theo phương cách nào đi nữa, cũng đều là việc kết thúc sự sống của người tàn tật, yếu đau hay hấp hối. Về luân lư không chấp nhận được việc này. Bởi thế, một việc làm hay bỏ qua không làm, vô t́nh hay hữu ư, gây ra chết chóc để loại trừ khổ đau đều là việc sát nhân trọng phạm đến nhân phẩm của con người cũng như đến ḷng trọng kính phải có đối với Thiên Chúa hằng sống là Tạo Hóa của họ…” (GLGHCG, 2277).

7.   What is the culture of death? Who is its agent? Name all of the specific things of the culture of death?

      Culture of death is a modern mentality which holds that people has the right to destroy human person in general (as issues mentioned in number 6) and to kill human life in particular. The agent of this kind of culture is spirit of antichrist, a spirit does not acknowledge Jesus Christ as coming in the flesh (2Jn 7; 1Jn 2:22), and thus does not accept powerless, useless and suffering, and brings about procured abortion and euthanasia.

·        Human life must be respected and protected absolutely from the moment of conception. From the first moment of his existence, a human being must be recognized as having the rights of a person – among which is the inviolable right of every innocent being to life.” (CCC, 2270). “Since the first century the Church has affirmed the moral evil of every procured abortion. This reaching has not changed and remains unchangeable. Direct abortion, that is to say, abortion willed either as an end or a means, is gravely contrary to the moral law.” (CCC, 2271)

·        “Those whose lives are diminished or weakened deserve special respect. Sick or handicapped persons should be helped to lead lives as normal as possible.” (CCC, 2276). “Whatever its motives and means, direct euthanasia consists in putting an end to the lives of handicapped, sick, or dying persons. It is morally unacceptable. Thus an act or omission which, of itself or by intention, causes death in order to eliminate suffering constitutes a murder gravely contrary to the dignity of the human person and to the respect due to the living God, his Creator…” (CCC, 2277)

8.   Đầu thai luân hồi có ngược lại với Nhập Thể hay       không? Không th́ tại sao? Có ở chỗ nào?

 

V́ bản tính của con người đă hoàn toàn được thần linh hóa trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa Nhập Thể làm Người, Đấng đă chết đi và sống lại trong thân xác con người, một thân xác đă được biến đổi và trở thành bất diệt, mà niềm tin Kitô giáo hoàn toàn phủ nhận vấn đề đầu thai luân hồi, mà chỉ tin tưởng vào việc thân xác sẽ được phục sinh và mong đợi mọi sự được canh tân trong một trời mới đất mới mà thôi.

 

·         Chết là tận cùng của cuộc con người lữ hành trên mặt đất, của thời gian ân sủng và xót thương Thiên Chúa hiến cho họ để họ sống đời sống trần gian của ḿnh am hợp với dự án thần linh, cũng như để họ định đoạt về định mệnh tối hậu của ḿnh. Khi ‘hoàn tất ‘cuộc sống duy nhất trên trần gian của ḿnh’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, 48.3), chúng ta sẽ không trở lại những cuộc sống trần gian khác nữa: ‘Con người được ấn định chết một lần’ (Heb 9:27). Không có vấn đề ‘đầu thai luân hồi’ sau khi chết”. (GLGHCG, 1013)

 

·        Chúa Kitô đă sống lại với thân xác của Người… Thế nên, trong Người, ‘tất cả mọi kẻ chết sẽ sống lại nơi thân thể như họ đang có hiện nay’, song Chúa Kitô ‘sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người’, nên một ‘thân xác thiêng liêng’ (CĐC Latêranô IV năm 1215: DS 801; Phil 3:21; 1Cor 15:44)”. (GLGHCG 999)

 

·         Bấy giờ cả vũ trụ hữu h́nh được ấn định biến đổi, ‘để chính thế giới, lấy lại t́nh trạng nguyên thủy của ḿnh, không c̣n gặp những trục trặc, phải góp phần vào việc phụng sự kẻ lành’, thông dự vinh quang với Chúa Giêsu Kitô phục sinh(Irênê,Adv.Haeres5,32,1:PG7/2,210)(GLGHCG 1047).

8.   Is reincarnation against Incarnation? If no,   why? If yes, how?

 

      Human nature is divinely elevated by Jesus Christ, God made Man, Who died and raised in human body, the body is transformed and became permanently spiritual. That’s why Christian faith rejects absolutely reincarnation. It believes only resurrection of human body and anticipates a  new heaven and a new earth at the end of  the time.

 

·        Death is the end of man’s earthly pilgrimage, of the time of grace and mercy which God offers him so as to work out his earthly life in keeping with the divine plan, and to decide his ultimate destiny. When ‘the single course of our earthly life’ is completed (Lumen Gentium 48.3), we shall not return to other earthly lives: ‘It is appointed for men to die once.’ (Heb 9:27). There is no ‘reincarnation’ after death. (CCC, 1013)

 

·        Christ is raised with his own body: ‘See my hands and my feet, that it is I myself’ (Lk 24:39), but he did not return to an earthly life. So, in him, ‘all of them will rise again with their own bodies which they now bear,but Christ ‘will change our lowly body to be like his glorious body,’ into a ‘spiritual body’ (Lateran Council IV 1215: DS 801; Phil 3:21; 1Cor 15:44).” (CCC, 999)

 

·        The visible universe, then, is itself destined to be transformed, ‘so that the world itself, restored to its original state, facing no further obstacles, should be at the service of the just,’ sharing their glorification in the resen Jesus Christ (St. Irenaeus, Adv. haeres. 5, 32, 1: PG 7/2, 210).” (CCC, 1047)

9.   Phải sống làm sao để xứng đáng với phẩm giá làm người của ḿnh theo ư nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể? Bằng cách nào?

 

V́ nhân tính của con người tạo vật chúng ta đă được thần linh hóa trong Vị Thiên Chúa làm người là Đức Giêsu Kitô mà nhân loại nói chung và Kitô hữu chúng ta nói riêng phải sống xứng đáng với phẩm vị cao cả và linh thánh của ḿnh, tức là phải nên thánh như Người là Thánh và phải thăng tiến xă hội loài người như Người đă cứu chuộc nó. Và để có thể nên thánh như Chúa và hoạt động thăng tiến nhân loại, Kitô hữu chúng ta cần phải sống đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô cũng như vào vào quyền lực Phúc Âm có sức biến đổi của Người, và phải sống nhờ các bí tích ban ân sủng của Người.

 

·         Các con hăy chiêm ngắm và suy niệm! Thiên Chúa đă dựng nên chúng ta để thông phần vào chính sự sống của Ngài; Ngài kêu gọi chúng ta nên con cái của Ngài, nên những chi thể sống động của Nhiệm Thể Chúa Kitô, nên đền thờ sáng ngời của Thần Linh Yêu Thương. Ngài kêu gọi chúng ta trở thành sở hữu của riêng Ngài: Ngài muốn tất cả chúng ta là những vị thánh. Giới trẻ thân mến, chớ ǵ tham vọng thiện hảo của các con là nên thánh như Ngài là thánh.

“Các con sẽ hỏi Cha: thế nhưng ngày nay c̣n có thể làm thánh được sao? Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mạnh loài người th́ thực sự là không thể làm được việc này. Thật vậy, các con đă quá rơ về những thành quả cũng như thất bại của ḿnh; các con cũng biết được những gánh nặng đè trên con người, nhiều nguy hiểm đe dọa họ và những hậu quả do tội lỗi của họ gây ra. Có những lúc chúng ta bị chán nản kềm giữ, đến nỗi nghĩ rằng không thể nào thay đổi được ǵ hết, cả ở nơi thế gian cũng như nơi bản thân ḿnh.

9.   How can we live our human dignity       according to the meaning of Incarnation       Mystery? By what means?

 

      Our human nature is divinely elevated in the God-Man Jesus Christ. Therefore humankind in general and we Christians in particular is to live properly with our sublime human dignity, that is to say, to become holy as He is holy and to build up human society as saved by Him. In order to become holy as He is and build up human society according to God’s plan, we Christian have to live our faith, completely trusting in risen Christ and in the transforming power of His Gospel, as well as to live through His sacraments of graces.

 

·        Contemplate and reflect! God created us to share in his very own life; he calls us to be his children, living members of the mystical Body of Christ, luminous temple of the Spirit of Love. He calls us to be his: he wants us all to be saints. Dear young people, may it be your holy ambition to be holy, as He is holy.

 

You will ask me: but is it possible today to be saints? If we had to rely only on human strength, the undertaking would be truly impossible. You are well aware, in fact, of your successes and your failures; you are aware of the heavy burdens weighing on man, the many dangers which threaten him and the consequences caused by his sins. At times we may be gripped by discouragement and even come to think that it is impossible to change anything either in the world or in ourselves.

“Cho dù cuộc hành tŕnh khó khăn, chúng ta cũng có thể làm được mọi sự trong Vị là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta. Vậy các con đừng hướng về một ai khác ngoài Chúa Giêsu. Các con đừng nh́n đâu khác ngoài nơi mà chỉ có Người mới có thể ban cho các con, v́ ‘trong tất cả mọi danh hiệu trên thế gian được ban cho loài người th́ chúng ta được cứu độ chỉ do nơi danh hiệu duy nhất này mà thôi’ (Acts 4:12). Với Chúa Kitô th́ sự thánh thiện Thiên Chúa muốn nơi mọi người lănh nhận bí tích rửa tội vẫn có thể đạt thành. Các con hăy cậy dựa nơi Người; các con hăy tin tưởng vào quyền năng vô địch của Phúc Âm và hăy lấy đức tin làm nền tảng cho niềm hy vọng của ḿnh. Chúa Giêsu bước đi với các con, Người canh tân tâm hồn các con và kiên cường các con bằng sức mạnh của Thần Linh Người.

 

Hỡi giới trẻ của mọi địa lục, các con đừng sợ là những vị thánh của thiên niên mới! Các con hăy chiêm niệm, hăy yêu thích nguyện cầu; các con hăy gắn bó với đức tin của ḿnh và hăy quảng đại trong việc phục vụ anh chị em ḿnh, các con hăy là những chi thể sinh động của Giáo Hội và hăy là những nhà xây dựng ḥa b́nh. Để đạt được kết quả trong dự phóng thiết yếu của đời sống này, các con hăy tiếp tục lắng nghe Lời Người, hăy lấy sức mạnh từ các phép bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Thống Hối. Chúa muốn các con là những tông đồ gan dạ cho Phúc Âm của Người và là những nhà xây dựng cho một nhân loại mới”.

 

(SĐ, 3)

 

 

Although the journey is difficult, we can do everything in the One who is our Redeemer. Turn then to no one, except Jesus. Do not look elsewhere for that which only He can give you, because ‘of all the names in the world given to men this is the only one by which we can be saved’ (Acts 4:12). With Christ, saintliness - the divine plan for every baptized person - becomes possible. Rely on Him; believe in the invincible power of the Gospel and place faith as the foundation of your hope. Jesus walks with you, he renews your heart and strengthens you with the vigour of his Spirit.

 

Young people of every continent, do not be afraid to be the saints of the new millennium! Be contemplative, love prayer; be coherent with your faith and generous in the service of your brothers and sisters, be active members of the Church and builders of peace. To succeed in this demanding project of life, continue to listen to His Word, draw strength from the Sacraments, especially the Eucharist and Penance. The Lord wants you to be intrepid apostles of his Gospel and builders of a new humanity.” 

(HFM, 3)

  

10.  Giới Trẻ Công Giáo Việt Nam chúng ta phải làm ǵ để có thể xây dựng xă hội chúng ta đang sống cũng như xây dựng một quê hương Việt Nam tốt đẹp theo chiều hướng Nhập Thể của Thiên Chúa làm người?

 

Việc Thiên Chúa Nhập Thể hóa thân làm người nghĩa là Thiên Chúa chứng tỏ Ngài hết sức yêu thương loài người và thực sự muốn loài người nói chung và từng người nói riêng được tham dự vào Sự Sống Thần Linh của Ngài. Do đó, xă hội loài người chỉ được bằng an và hạnh phúc trong yêu thương và đoàn kết, ở chỗ, tất cả mọi sinh hoạt xă hội phải nhắm đến mục đích duy nhất là thăng tiến toàn diện con người và tất cả mọi người, chủ thể, trọng tâm và mục tiêu của sinh hoạt trần thế.

 

·         Nếu các con tin rằng Chúa Kitô đă tỏ cho thấy t́nh yêu của Chúa Cha đối với mọi người th́ các con không thể không nỗ lực đóng góp vào việc xây dựng một thế giới mới, được xây dựng trên quyền năng của yêu thương và tha thứ, chống lại với bất công và tất cả mọi thảm cảnh về thể lư, luân lư và tinh thần, qui hướng chính trị, kinh tế, văn hóa và kỹ thuật vào việc phục vụ con người và việc phát triển toàn vẹn của con người”. (SĐ, 3.5)

·         Con người chính là tác giả, là tâm điểm và là mục tiêu của tất cả mọi sinh hoạt kinh tế cũng như xă hội”. (GLGHCG, 2459)

 

·         Việc phát triển thực sự liên quan đến toàn thể con người. Nó cần phải liên quan đến việc làm tăng phát khả năng của mỗi người để họ có thể đáp ứng ơn gọi của ḿnh và nhờ đó đáp ứng ơn gọi của Thiên Chúa (x Thông Điệp Bách Niên, 29)”. (GLGHCG, 2461)

10. How can we Vietnamse Catholic Youth build       up  our present society and our Vietnam       country in the light of Incarnation of the God-      Man?

 

      Incarnation means God really loves His human creature and truly wants they are able to share in His Divine Life. Therefore human society can attain a permanent state of peace and happiness in mutual love and solidarity only. In order to achieve this ultimate goal, all human society’s activities are to become services for the benefits of each and every person, who himself is their suoàect, center and goal.

 

·        If you believe that Christ has revealed the Father’s love for every person, you cannot fail to strive to contribute to the building of a new world, founded on the power of love and forgiveness, on the struggle against injustice and all physical, moral and spiritual distress, on the orientation of politics, economy, culture and technology to the service of man and his integral development.” (HFM, 3.5)

 

·         Man is himself the author, center, and goal of all economic and social life.” (CCC, 2459)

 

·        True development concerns the whole man. It is concerned with increasing each person’s ability to respond to his vocation and hence to God’s call.” (CCC, 2641)